Maa jezik (chauma, che ma, ma, ma krung, ma ngan, ma to, ma xop, maa’, maaq; ISO 639-3: cma), jezik etničke grupe Maa iz Vijetnama, kojim govori 33,300 ljudi (1999 popis) u provincijama Lam Dong i Dong Nai.
Tiếng Mạ (Châu Mạ, Chê Mạ, Chô Mạ, Mạ Krung, Mạ Ngăn, Mạ Tô, Mạ Xốp) là ngôn ngữ của người Mạ tại Việt Nam, được nói bởi 33.300 người (Điều tra dân số năm 1999) tại các tỉnh Lâm Đồng và Đồng Nai.


Maa pripada zajedno s jezikom koho [kpm] (ponekad ga smatraju i njegovim dijalektom), bahnarskoj podskupini sre, široj skupini sre-mnong.[1]
Tiếng Mạ cùng với tiếng Cơ Ho (đôi khi được coi là phương ngữ của tiếng Cơ Ho) thuộc nhóm ngôn ngữ Bahnar Nam.[1]

Izvori
Tham khảo

Chut jezici, malena austroazijska skupina jezika, porodice mon-khmer, raširenih na području Vijetnama i Laosa.
Nhóm ngôn ngữ Chut, là nhóm ngôn ngữ nhỏ thuộc ngữ chi Việt của ngữ hệ Nam Á, phạn bố trên lãnh thổ Việt Nam và Lào.

Jedna je od pet skupina koja sa skupinama cuoi, muong, thavung (jezik aheu [thm]) i vijetnamskom, čini širu skupinu viet-muong.
Đây là một trong ba nhóm, cùng với nhóm tiếng Thổ và nhóm Việt-Mường tạo nên ngữ chi Việt rộng lớn hơn.

Obuhvaća 3 jezika, viz.: arem [aem], 20 u Vijetnamu i 20 u Laosu; chut [scb], 3.830 u Vijetnamu (1999 popis) i 450 u Laosu (1995 census); i maleng [pkt], 800 u Laosu (Ferlus 1996) i 200 u Vijetnamu (Ferlus 1996).[1]
Nhóm ngôn ngữ Chứt bao gồm 3 ngôn ngữ: Tiếng Arem, 20 người nói ở Việt Nam và 20 người nói ở Lào; tiếng Chứt, 3.830 người ở Việt Nam (điều tra dân số năm 1999) và 450 người ở Lào (điều tra dân số năm 1995); và tiếng Mã Lèng [pkt], 800 người ở Lào (Ferlus 1996) và 200 người ở Việt Nam (Ferlus 1996).[1] Ngoài ra, tiếng Thavưng cũng được phân loại thuộc nhóm Chứt và nằm ở nhánh phía Tây.

Pho je tradicionalno vijetnamsko jelo, koje se također smatra jednim od tipičnih jela za vijetnamsku kuhinju .
Phở là một món ăn truyền thống của Việt Nam, cũng có thể xem là một trong những món ăn tiêu biểu cho nền ẩm thực Việt Nam.

Glavni sastojak pho je rezanci i juha (ili juhe na južni način ) s tanko narezanom govedinom ili piletinom .
Thành phần chính của phở là bánh phở và nước dùng (hay nước lèo theo cách gọi miền Nam) cùng với thịt bò hoặc thịt gà cắt lát mỏng.

Također prateće začinima poput sojina umaka, papra , limunova soka , riblji umak , chili . , , Ovi začini se dodaju prema ukusu svakog korisnika.
Ngoài ra còn kèm theo các gia vị như: tương, tiêu, chanh, nước mắm, ớt... Những gia vị này được thêm vào tùy theo khẩu vị của từng người dùng.

Pho se često koristi kao doručak doručak ili noću, ali u velikim gradovima ovo jelo je uživao tijekom dana.
Phở thông thường dùng làm món điểm tâm buổi sáng hoặc ăn đêm, nhưng ở các thành phố lớn món ăn này được thưởng thức trong cả ngày.

Jug Vijetnam i neke druge regije se prodaju zajedno tjestenina bosiljak diskove što su luk , cijene i zelenom korijander , bosiljak , gdje korijander je karakteristika Pho ostavlja; Međutim, u Hanoju nema ploče ovog sirovog povrća.
Các tỉnh phía Nam Việt Nam và một số vùng miền khác phở được bày bàn kèm cả đĩa rau thơm như hành, giá và những lá cây rau mùi, rau húng, trong đó ngò gai là loại lá đặc trưng của phở; tuy nhiên tại Hà Nội thì không có đĩa rau sống này.

Pho je obično juha od goveđih tjestenina ili juha od piletine s tjesteninom, ali ponekad postoje i druge varijacije kao što su juha od svinjskog rezanca, juha od škampa i juha od žaba, iako ne i vrlo uspješna. [1]
Phở thường là phở bò hay phở gà, nhưng đôi khi cũng có những biến thể khác như phở heo, phở tôm, phở ếch, dù không mấy thành công.[1]

Godine rođenja pho-a nisu službeno zabilježene.
Tuổi khai sinh của phở không được sử liệu ghi nhận chính thức.

Vijetnamski rječnici kao što je vijetnamski - Bo-La Rječnik Alexandre de Rhodes objavljeni 1651. nemaju riječi "pho". Isti je i rječnik Huynh Tinh Cua (1895.), rječnika Genibrel (1898).
Các cuốn tự điển Việt như Tự điển Việt - Bồ - La của Alexandre de Rhodes xuất bản năm 1651 không có từ "phở". Tự điển Huỳnh Tịnh Của (1895), Tự điển Genibrel (1898) cũng vậy.

Rezanci s tjesteninom službeno su prvi put objavljeni u Vijetnamskom rječniku rječnika (1930.), koji je pokrenula Udruga Tri Tri Tien : " Hrana se proizvodi s narezanim kruhom kuhanog s govedinom ".
Danh từ phở được chính thức ấn hành lần đầu trong cuốn Việt Nam tự điển (1930) do Hội Khai Trí Tiến Đức khởi thảo: "Món đồ ăn bằng bánh thái nhỏ nấu với thịt bò".

To pojačava argument da se pho može proizvesti samo između 1900. i 1907. [1]
Điều này củng cố thêm luận chứng phở chỉ có thể sinh ra trong khoảng từ năm 1900 - 1907.[1]

Spor
Tranh cãi

Od početka 20. stoljeća, bilo je mnogo kontroverzi oko podrijetla pho-a.
Kể từ đầu thế kỷ 20 đến nay đã có nhiều tranh cãi về nguồn gốc ra đời của phở.

Iako još uvijek postoji neslaganje oko mjesta podrijetla ili vremena službenog rođenja, većina njih dijeli isto mišljenje da je pho (kao tipično jelo urbanih stanovnika) rođen u francuskom kolonijalnom razdoblju. razdoblje kada su Francuzi počeli promicati kolonijalno iskorištavanje u sjevernom Vijetnamu.
Tuy vẫn còn bất đồng về nơi xuất xứ thực sự hay thời điểm ra đời chính thức nhưng hầu hết cùng chung quan điểm là phở (với vai trò là một món ăn đặc trưng của cư dân đô thị) khai sinh trong thời Pháp thuộc ở giai đoạn người Pháp bắt đầu đẩy mạnh khai thác thuộc địa ở miền Bắc Việt Nam.

Može se vidjeti da je pho jedan od tipičnih primjera bricolage koncepta koji je kulturni istraživač Phan Ngoc koristio za osnovne značajke vijetnamske kulture: tj. Hibridnu tendenciju (prije svega apsorbirati, kombinirati i transformirati iz više stranih izvora nego kreativnih.
Có thể xem phở là một trong những ví dụ đặc trưng cho khái niệm bricolage (lai ghép) mà nhà nghiên cứu văn hóa Phan Ngọc dùng để chỉ đặc tính cơ bản của văn hóa Việt Nam: nghĩa là thiên hướng lai ghép (chủ yếu tiếp thu, kết hợp, biến tấu từ nhiều nguồn ngoại lai) hơn là tự thân sáng tạo.

Iako je Pho očito pod utjecajem kulinarske kulture koju su donijeli Francuzi u Vijetnam, to nije isključivo stvaranje zapadne kuhinje.
Phở dù chịu ảnh hưởng rõ của văn hóa ẩm thực do người Pháp mang tới Việt Nam nhưng nó không phải là sáng tạo ẩm thực độc quyền của những người phương Tây.

Također ima jasan utjecaj kulinarske kulture iz kineske zajednice u Vijetnamu, ali nije posve svijetla i jedinstvena za Kineze.
Nó cũng mang ảnh hưởng rõ của văn hóa ẩm thực từ cộng đồng người Hoa ở Việt Nam nhưng cũng không phải hoàn toàn sáng táo độc nhất của người Hoa.

Ukratko, pho je kombinacija tri kulinarske kulture - vijetnamsko-francusko-kineske, u kojoj vijetnamci igraju općenitiju ulogu (primanje i transformiranje) od stvaranja sebe. potpuno novo.
Nói tóm lại, phở là sản phẩm kết hợp của ba nét văn hóa ẩm thực là Việt-Pháp-Hoa trong đó người Việt đóng vai trò là chủ thể tổng hợp (tiếp nhận và biến tấu) hơn là tự mình sáng tạo ra cái mới hoàn toàn.

Do ranih godina 21. stoljeća pho, iako star samo godinu dana, prepoznat je već više od stotinu godina i nema istinski jasan izvor, ali je ubrzo postao jedna od karakteristika. najprepoznatljiviji u kulinarskoj kulturi vijetnamskih ljudi, osobito stranih turista.
Cho đến những năm đầu thế kỷ 21, phở dù chỉ có tuổi đời được đa số ghi nhận trên dưới một trăm năm và cũng không có một lai lịch xuất xứ thực sự rõ ràng nhưng nó đã nhanh chóng trở thành một trong những đặc trưng dễ nhận biết nhất trong văn hóa ẩm thực của người Việt, đặc biệt là với du khách nước ngoài.

Za mnoge vijetnamske ljude, pho ima više značenja od čistog jela jer je tipična društveno-ekonomska kultura prehrane modernog vijetnamskog grada, obično na mjestima gdje ljudi gusto naseljena, raznolika kao Hanoi i Ho Chi Minh City ( Saigon ).
Với nhiều người Việt Nam, phở có ý nghĩa nhiều hơn một món ăn thuần túy vì nó là một nét văn hóa ẩm thực-xã hội-kinh tế đặc trưng của chốn thị thành Việt Nam thời hiện đại, điển hình ở những nơi dân cư đông đúc, đa dạng như Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn).

Sada je Pho slijedio prekomorsku vijetnamsku zajednicu kako bi se doselio u mnoge zemlje širom svijeta.
Hiện nay phở đã theo chân cộng đồng Việt kiều di cư đến nhiều nước trên thế giới.

Voda koja se koristi za lonac pho se često koristi u vodi da bi se napravila od goveđe kosti (ako domaćica nije iskusna da eliminira miris kravlje kosti, može se zamijeniti svinjskim kostima), kikiriki , s mnogim začinima uključujući cimet , Anis , đumbir na žaru, kardamom , karanfili , miris sjemena , suhi luk.
Nước dùng cho nồi phở thường là nước dùng trong được ninh từ xương bò (nếu người nội trợ không nhiều kinh nghiệm để khử mùi xương bò thì có thể thay bằng xương lợn), sá sùng, kèm nhiều loại gia vị bao gồm quế, hồi, gừng nướng, thảo quả, đinh hương, hạt mùi, hành khô nướng.

Meso koje se koristi za jelo od tjestenine je govedina (sa svim vrstama kukuruznog mesa, ukrašene, kantice se ponovno kuhaju ili potpuno kuhaju) ili piletina (stara piletina kuhan, razderano meso za bogato meso).
Thịt dùng cho món phở là thịt bò (với đủ loại thịt bắp, nạm, gầu được làm tái hay chín hẳn) hoặc thịt gà (gà ta già luộc, xé thịt cho thịt ngọt đậm đà).

Tradicionalni "rezanci" izrađeni su od rižinog brašna , prevučeni u tanke listove i izrezani u vlakna.
"Bánh phở" theo truyền thống được làm từ bột gạo, tráng thành tấm mỏng rồi cắt thành sợi.

Pho uvijek uživa kad je vruće.
Phở luôn được thưởng thức khi còn nóng hổi.

Dobivanje ukusnih fioka jako ovisi o iskustvu i znanju trgovca , što je posebno važno za lonac s vodom.
Để có được những bát phở ngon tùy thuộc rất nhiều vào kinh nghiệm và bí quyết truyền thống của người chế biến, trong đó quan trọng đặc biệt là nồi nước dùng.

Govedina s mnogo amonijačne kiseline , kreatinin , karnitin i kalij minerali podržavaju napregnut mišićni razvoj.
Thịt bò có nhiều axit amoniac, Creatinin, carnitine và khoáng chất kali hỗ trợ cơ bắp phát triển săn chắc.

Sadrži oko 50% nezasićenih masti, citocilina i vitamina B12 i svježeg povrća, gomolja i voća za reguliranje kolesterola u krvi i stanicama ljudskog tijela.
Nó chứa khoảng 50% lượng chất béo thuộc dạng chưa bão hòa, chất cytocilin và vitamin B12 cùng các loại rau, củ, quả tươi có tác dụng điều hòa Cholesterol trong máu và các tế bào của cơ thể con người.

Obrada
Chế biến

Juha
Nước dùng

U pho je proces pripreme juhe, također poznat kao bujon, najvažnija faza.
Trong món phở, công đoạn chế biến nước dùng, còn gọi là nước lèo, là công đoạn quan trọng nhất.

Bujon tradicionalne juhe od tjestenine mora se kuhati s kravljim kostima zajedno s nekim začinima .
Nước dùng của phở truyền thống là phải được ninh từ xương ống của bò cùng với một số gia vị.

Kosti se moraju oprati, odrezati sve meso pričvršćeno na kost i staviti ga u lonac s hladnom vodom.
Xương phải được rửa sạch, cạo sạch hết thịt bám vào xương cho vào nồi đun với nước lạnh.

Kosti juha prvi put mora biti izli da bi se spriječio kontaminacija juhe lošim mirisom kravlje kosti, sljedeća prokuhana voda će se koristiti kao juha.
Nước luộc xương lần đầu phải đổ đi để nước dùng khỏi bị nhiễm mùi hôi của xương bò, nước luộc lần sau mới dùng làm nước lèo.

Dodani su i đumbir i luk na žaru.
Gừng và củ hành đã nướng đồng thời cũng được cho vào.

Vatra je uključena tako da voda kipi, kada voda prokuha, mora smanjiti vatru i početi pjeniti.
Lửa đun được bật lớn để nước sôi lên, khi nước đã sôi thì phải giảm bớt lửa và bắt đầu vớt bọt.

Nakon što je sva pjena uklonjena, dodajte malo hladne vode i pričekajte da voda nastavi kuhati kako biste uklonili pjenu. , , Samo to radite kontinuirano dok voda ne bude bistra i nema ostataka u pjeni.
Khi đã vớt hết bọt, cho thêm một ít nước lạnh và lại đợi nước tiếp tục sôi tiếp để vớt bọt... Cứ làm như vậy liên tục cho đến khi nước trong và không còn cặn trong bọt nữa.

Zatim dodajte malo začina i podesite vatru tako da posuda samo zakuha kako bi voda postala mutna, a slatkoća kosti ima dovoljno vremena da se otopi u juhi.
Sau đó, cho một ít gia vị vào và điều chỉnh độ lửa sao cho nồi nước chỉ sôi lăn tăn để giữ cho nước khỏi bị đục và chất ngọt từ xương có đủ thời gian để tan vào nước lèo.

Ukusni okus juhe uglavnom se određuje začinima.
Hương vị thơm ngon của nước dùng chủ yếu do các loại gia vị quyết định.

Međutim, formula svake specifične juhe za svaki pho brand ostaje posve tajna.
Tuy nhiên, công thức của từng loại nước dùng cụ thể cho từng hiệu phở được giữ khá bí mật.

Međutim, može se vidjeti da su ovi začini kardamom , đumbir , zvijerni anis , klinčić , sjemenke korijandera , štapići cimeta , suhi luk , oguljeni škampi , ginseng i tradicionalno, neophodni. vola rep.
Mặc dù vậy, có thể nhận thấy các loại gia vị này bao gồm thảo quả, gừng, hoa hồi, đinh hương, hạt ngò gai, quế thanh, hành khô, tôm nõn, địa sâm và theo truyền thống, không thể thiếu một cái đuôi bò.

Primitivna, za povećanje slatkoće je bogata aminokiselinama pho, tradicionalno, kada nema MSG (tjestenine), stari ljudi su koristili sušene škampe i sušeni ginseng . [1] Današnji način kuhanja bujona ima lokalne razlike, jer Sjever često koristi mnogo glavnih rezanaca (osobito za vrijeme subvencioniranja , tu su "bespilotne" osobe - bez mesa), dok Jug ima mnogo mjesta. kuhati juhu s pilećim kostima i dodati osušene lignje .
Nguyên thủy, để tăng vị ngọt rất giàu axit amin của nước phở, theo truyền thống, khi chưa có bột ngọt (mì chính), người xưa dùng tôm he và địa sâm khô.[8] Cách nấu nước dùng ngày nay đã có những sự khác biệt tùy địa phương, như miền Bắc thường dùng nhiều mì chính (nhất là trong thời bao cấp, có cả phở "không người lái" - không thịt), còn miền Nam nhiều nơi nấu nước dùng bằng xương gà và thêm khô mực.

Varijacije
Biến tấu

Korijenje
Nguồn gốc

Danas, pho ima različite metode obrade i okusa.
Ngày nay, phở đã có những phương pháp chế biến và hương vị khác nhau.