Katsushika Hokusai (葛飾 北斎) (Edo, 12 d'octubre del 1760 – 10 de maig del 1849),[1] conegut simplement com a Hokusai, va ser un dibuixant, gravador i pintor japonès de l'estil ukiyo-e del període Edo.
Katsushika Hokusai (葛 飾 北 斎) ( Edo, 12 tháng 10 năm 1760 - 10 tháng 5 năm 1849 ), [1] được gọi đơn giản là Hokusai, là một họa sĩ, thợ khắc và họa sĩ theo phong cách ukiyo-e của Nhật Bản thời kỳ Edo.
En el seu temps, era el principal especialista en pintura xinesa del Japó.[2] També és conegut per la diversitat de noms que emprà durant la seva carrera professional: Shunro, Sori, Kako, Taito, Gakyonjin, Iitsu i Manji.[3]
Vào thời của mình, ông là chuyên gia hàng đầu về hội họa Trung Quốc tại Nhật Bản.[2] Anh cũng được biết đến với sự đa dạng của những cái tên mà anh đã sử dụng trong suốt sự nghiệp của mình: Shunro, Sori, Kako, Taito, Gakyonjin, Iitsu và Manji.[3]
Etapa principal
sự nghiệp
El mont Fuji
Núi Phú Sĩ
El mont Fuji és un símbol del Japó; és una muntanya sagrada des del segle vii.
Núi Phú Sĩ là biểu tượng của Nhật Bản, một ngọn núi thiêng liêng từ thế kỷ 7.
Existeix una llegenda sintoista que explica que l'emperador va ordenar destruir la part superior de la muntanya per aconseguir l'elixir de la immortalitat; el fum que s'escapa de vegades s'explica perquè procedeix de la beguda que es consumeix.[n.
Theo một cổ tích dân gian Nàng tiên trong ống tre, kể về nàng con gái của Mặt Trăng, được tái sinh trong một thân cây tre dưới trần thế. Trước khi trở về cung trăng, nàng đã tặng lại cho Thiên hoàng thuốc trường sinh bất tử. Nhưng vì quá nhớ nhung, Thiên hoàng lệnh cho binh lính leo lên đỉnh núi, gửi gắm tấm lòng của mình tới nàng công chúa trên Mặt Trăng; làn khói theo đó mà cũng được tin rằng xuất phát xuất từ việc đốt thư và thuốc trường sinh.[n.
2] D'altra banda, segons la tradició, és l'estatge dels déus sintoistes Fuji-hime i Sakuya-hime.[17] També la mort de Jikigyō Miroku (1671-1733), un monjo budista que hi morí dejunant, potencià la veneració d'aquesta muntanya i transformà el fet de visitar-la en un ritual ple de significats.[18]
1] Do vậy mà ngay từ cổ chí kim, núi Phú Sĩ luôn được gắn liền với bí mật trường sinh bất tử, điều mà có lẽ cũng luôn ám ảnh Hokusai với nơi đây.[1] Việc Hokusai miêu tả núi Phú Sĩ thường xuyên như vậy một phần cũng liên quan đến tín ngưỡng tôn giáo của ông. Hokusai là một môn đồ của tông phái Phật giáo Nichiren. Mặt khác, theo truyền thống, đây là nơi ở của các vị thần Shinto là Fuji-hime và Sakuya-hime.[1] Ngoài ra, một nhà sư Phật giáo tên Jikigyō Miroku (1671-1733) đã tuyệt thực rồi qua đời tại đây, điều này càng củng cố cho sự thiêng liêng của ngọn núi và biến việc viếng thăm nơi đây thành một nghi lễ đầy ý nghĩa.[2]
La muntanya ha servit d'inspiració a molts poetes i ha aparegut en una infinitat de representacions pictòriques.
Ngọn núi truyền cảm hứng cho nhiều nhà thơ và đã trở thành vô số biểu tượng nối tiếng.
L'obra més antiga que es coneix és un dibuix en paper que hi ha en una porta corredissa del segle XI.[19] Ha estat objecte d'un tractament especial pels pintors japonesos del segle XIX i, a més de l'obra d'Hokusai,[20] també fou la inspiració d'un altre gran artista, Hiroshige (1797-1858), que presentà les Cinquanta-tres estacions del Tokaido (1833-1834), publicades en diverses edicions originals fins al 1857; també va pintar dues sèries personals amb el nom de Trenta-sis vistes del mont Fuji.[21] En el mateix període, Utagawa Kuniyoshi (1798-1861) va realitzar algunes representacions del Fuji.
Tác phẩm lâu đời nhất được biết đến là bản vẽ trên giấy về một cánh cửa trượt thế kỷ 11.[1] Nó luôn là một chủ đề được giới họa sĩ Nhật Bản thế kỷ 19 đặc biệt coi trọng, ngoài tác phẩm của Hokusai, [2] nó cũng là nguồn cảm hứng cho một nghệ sĩ vĩ đại khác, Hiroshige (1797-1858), tác giả của bộ bản họa Năm mươi ba trạm nghỉ của Tokaido (1833-1834), ấn bản gốc được xuất bản đến năm 1857; Hiroshige cũng thực hiện một bộ bản họa của riêng mình có cùng tên Ba mươi sáu cảnh núi Phú Sĩ.[3] Trong cùng thời gian, Utagawa Kuniyoshi (1798-1861) cũng có một số sáng tác từ hình ảnh núi Phú Sĩ.
Més recentment, entre d'altres, destaquen dues obres: Fuji, de Kokei Kobayashi (1883-1957), i Aka-Fuji (Fuji vermell), de Yokoyama Misao (1920-1973).[19]
Gần đây nhất, hai tác phẩm nổi bật nhất có thể kể đến là: Fuji, của Kokei Kobayashi (1883-1957), và Aka-Fuji (Núi Phú Sĩ đỏ) của Yokoyama Misao (1920-1973). [1]
Aquesta és una llista exhaustiva dels noms professionals (goh) usats per Hokusai:[23]
Dưới đây là danh sách đầy đủ các tên hiệu (goh) từng được Hokusai sử dụng:[1]
La següent és una selecció d'obres d'Hokusai, llistades en ordre cronològic.
Dưới đây là tuyển tập các tác phẩm của Hokusai đã được liệt kê theo thứ tự thời gian.
Algunes d'aquestes obres s'ha esmentat o s'han utilitzat com a il·lustracions en algunes de les biografies d'Hokusai, i és representativa dels millors treballs d'Hokusai o de determinats períodes del desenvolupament del seu art.
Một số tác phẩm trong này đã được đề cập hoăc được dùng làm hình minh họa về tiểu sử của Hokusai. Đay cũng là đại diện cho những tác phẩm nổi bật nhất theo từng giai đoạn phát triển nghệ thuật của ông.
1790) Estrangers observant costums japonesos (1796) Sèrie de Chushingura I (ca. 1800) Brocats impresos de trenta-sis dones poetes (1801) Cinquanta poetes imaginaris, cadascun amb un poema (1802) El Fuji a la primavera (1803) Trenta-sis estacions al Tokaido (1804) Sèrie de Chushingura II (1806) Suikoden (1807) Retrats de sis poetes (ca. 1810) Manga d'Hokusai, vol. 1 (1814) Gashiki d'Hokusai (1819); Soga d'Hokusai (1820) Trenta-sis vistes del mont Fuji (ca.
Lễ kỷ niệm những ngôi nhà xanh (khoảng 1790) Lễ kỷ niệm mười hai tháng (khoảng năm 1790) Người nước ngoài trong phong tục Nhật Bản (1796) Loạt bản họa Chushingura I (khoảng 1800) Những tấm in gấm của ba mươi sáu nữ nhà thơ (1801) Năm mươi nhà thơ tưởng tượng, kèm theo mỗi người một bài thơ (1802) Núi Phú Sĩ vào mùa xuân (1803) Ba mươi sáu trạm nghỉ ở Tokaido (1804) Loạt bản họa Chushingura II (1806) Suikoden (1807) Chân dung của sáu nhà thơ (khoảng 1810) Hokusai Manga, vol.
1827-30) Neu, lluna, i flors (ca. 1827-30) Flors i ocells (ca. 1827-30) Toshi-sensor (1833-36) Cent vistes del mont Fuji (1834-35) Cent poemes recitats per la mainadera (ca.
1 (1814) Hokusai Gashiki (1819); Hokusai Soga (1820) Ba mươi sáu cảnh núi Phú Sĩ (khoảng 1830-33)[1] Cảnh quan tại những cây cầu nổi tiếng (khoảng 1827-30) Tuyết, trăng và hoa (khoảng 1827-30) Hoa và chim (khoảng 1827-30) Toshi-sensor (1833-36) Một trăm cảnh núi Phú Sĩ (1834-35) Một trăm bài thơ ngâm thơ của bà vú (ca 1845).
La seva obra és considerada com una de les més importants del Japó pel que fa a pintura paisatgística.
Những tác phẩm của Hokusai luôn nắm giữ vị trí quan trọng nhất trong nền hội họa phong cảnh Nhật Bản.
A finals del segle xviii i principis del xix, l'enriquiment de la burgesia japonesa va ser la gran impulsora de la prolífica elaboració d'estampes en sèrie, conegudes amb el nom d'ukiyo-e o «pintures del món flotant».
Vào cuối thế kỷ 18 và đầu 19, giai cấp tư sản Nhật Bản đóng vai trò chính trong việc thúc đẩy sản xuất hàng loạt tranh in, hay được gọi là ukiyo-e (hình ảnh của thế giới nổi).
Aquestes estampes, amb un cost més reduït que una pintura original, eren les que la nova classe social podia comprar.
Những bản in này có chi phí thấp hơn một bức tranh gốc và là sản phẩm mà mọi tầng lớp xã hội có thể mua.
D'aquesta manera, tot i que la tècnica de l'ukiyo-e es practicava i era coneguda des de feia temps –amb artistes destacats com Hishikawa Moronobu–, és en aquest període que van ser més populars.
Do vậy mà kỹ thuật ukiyo-e đã xuất hiện một thời gian lâu trước đó - với các nghệ sĩ nổi bật như Hishikawa Moronobu - nhưng phải đến giai đoạn này mới thu hút được nhiều sự chú ý.
Les obres es gravaven principalment sobre blocs de fusta de cirerer, i l'impressor podia fer còpies de l'original fins que el relleu gravat en la fusta començava a desaparèixer.
Các tác phẩm chủ yếu được khắc trên gỗ anh đào, từ đó mà thợ in có thể tạo ra nhiều bản sao từ bản gốc cho đến khi phù điêu khắc trên gỗ dần biến mất.
El tema principal eren retrats en un primer pla de dones, actors de teatre kabuki i samurais, que apareixien tant en escenes eròtiques com humorístiques.
Chủ đề chính của chân dung cận cảnh thường về phụ nữ, nghệ sĩ kịch kabuki và samurai, hay cũng có thể là người xuất hiện trong những cảnh khiêu dâm pha trò.
També apareixien envoltats de paisatges, i en aquesta especialitat Hokusai va mostrar tot el seu mestratge.[24]
Bên cạnh đó còn có quang cảnh thiên nhiên, mà đối với Hokusai đây là thể loại sở trường, nơi ông thể hiện những kỹ năng bậc thầy của mình.[1]
Hokusai va estudiar i va experimentar durant la seva llarga vida nous corrents artístics, entre els quals cal destacar els de les escoles Kano, Tosa i Korin; es revelà com un gran especialista de la pintura tradicional xinesa, i també com un bon coneixedor de la pintura occidental, sobretot dels gravats holandesos.[25] En l'època que més va rebre la influència de la pintura xinesa,[2] una característica rellevant del seu estil va ser la utilització d'elements del paisatge xinès i amb els rostres dels personatges força amples, propis dels habitants d'aquell país.
Tametomo và những con quỷ, Hokusai, 1811 Hokusai đã nghiên cứu và thử nghiệm trong suốt cuộc đời của ông, bao gồm cả những trào lưu nghệ thuật mới tại trường Kano, Tosa và Korin; ông có nhiều chuyên môn trong hội họa truyền thống Trung Quốc và đồng thời cũng là một người sành nghệ thuật phương Tây, đặc biệt với tranh khắc Hà Lan.[1] Vào thời điểm bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi hội họa Trung Quốc,[2] thể hiện rõ trong phong cách của ông đó là sử dụng các yếu tố phong cảnh Trung Quốc và các khuôn mặt nhân vật cũng được thể hiện khá to, đặc trưng của người dân Trung Hoa lúc đó.
Aquestes semblances es poden copsar en el seu quadre Tametomo i els dimonis, del 1811, que es troba exposat al British Museum de Londres.[26]
Những điểm tương đồng này có thể nhìn thấy trong bức tranh năm 1811 của ông, Tametomo và những con quỷ, hiện được trưng bày tại Bảo tàng Anh ở London.[3]
La més gran de les obres d'Hokusai és la col·lecció de 15 volums anomenats Hokusai Manga (北斎漫画).
Tác phẩm lớn nhất của Hokusai là bộ 15 tập mang tên Hokusai Manga (北斎漫画).
És una col·lecció amb uns 4.000 dibuixos molt diversos, que inclouen paisatges, flora, fauna, i escenes de la vida quotidiana.
Đó là một bộ sưu tập với khoảng 4.000 bức vẽ rất đa dạng từ phong cảnh, thực vật, động vật đến những quang cảnh của cuộc sống hàng ngày.
És una obra impresa en tres colors: negre, gris i rosa clar.
Chúng được in bằng ba màu: đen, xám và hồng nhạt.
El primer dibuix es va publicar l'any 1814, quan l'artista tenia 55 anys; els tres darrers volums es van publicar pòstumament, i l'últim d'aquests és considerat una obra apòcrifa.[27] Aquests esbossos, sovint es creu, erròniament, que són el precedent dels moderns manga.
Bản đầu tiên được xuất bản năm 1814, khi họa sĩ 55 tuổi; ba tập cuối cùng được xuất bản là di cảo, và tập cuối cùng trong số này được coi là một tác phẩm ngụy thư.[1] Những bản phác thảo này thường bị nhầm tưởng là tiền lệ của manga hiện đại.
El nom de manga, en l'obra d'Hokusai, fa referència a una col·lecció d'esbossos no connectats entre si per cap història; per tant, tenen una concepció diferent del còmic en què es fonamenta el manga modern.
Tên manga trong tác phẩm của Hokusai mang ý nghĩa là một bộ sưu tập các bản phác thảo rời rạc, không được kết nối với nhau bởi bất kỳ câu chuyện nào; do đó, chúng có định nghĩa khác về truyện tranh ở manga hiện đại.
Val a dir que la forma de treballar, sobre paper transparent i portant-ho a terme en diverses fases, sí que té una similitud en la manera d'elaborar el modern còmic o manga.
Điều đáng chú ý ở đây là cách sản xuất trên giấy trong suốt và thực hiện theo nhiều giai đoạn, có sự tương đồng với cách làm truyện tranh hay manga hiện đại .
Hokusai feia un simple esbós en paper transparent i després col·locava al damunt un altre paper també transparent on corregia el dibuix, el dibuixava amb més detalls i realitzava la composició final.
Hokusai ban đầu phác thảo đơn giản lên một tờ giấy trong suốt, sau đó đặt tờ giấy khác lên trên rồi tiến hành sửa lại bản vẽ chi tiết hơn và tạo ra bố cục cuối cùng.
Finalment, aquest era el disseny definitiu, que era enganxat a la planxa de fusta on es realitzava el gravat.
Bản thiết kế hoàn chỉnh cuối cùng sẽ được dán vào tấm gỗ nơi thợ khắc sẽ làm việc tiếp.
En la seva elaboració, calia resseguir de manera curosa les línies traçades per poder fer després la impressió de l'estampa.
Trong suốt quá trình khắc, người thợ phải vạch thật kỹ những nét vẽ để sau này có thể dựa vào đó để tạo phù điêu.
A Occident, aquesta obra va començar a ser coneguda després que Matthew Perry arribés al Japó el 1854.[28]
Tác phẩm này dần được người phương Tây chú ý đến sau khi Matthew Perry đặt chân lên Nhật Bản vào năm 1854.[1]
Aquests dibuixos realitzats quan l'artista tenia entre 60 i 70 anys són reconeguts com el millor de la seva obra.
Những tác phẩm được coi là xuất sắc nhất của Hokusai đều được ông thực hiện khoảng thời gian từ 60 đến 70 tuổi.
Hokusai va ser un dels pintors que més va contribuir a fer que la pintura de paisatges i sobre la natura –ocells i flors– arribés a ser la icona amb la qual s'identifica la cultura del Japó.[1]
Hokusai là một trong những nghệ sĩ có công lớn trong việc đưa phong cảnh và thiên nhiên, chim và hoa trở thành biểu tượng văn hóa Nhật Bản.[1]
L'any 1854, els ports japonesos es van obrir al comerç amb Europa.
Năm 1854, các hải cảng Nhật Bản được mở cửa để giao thương với châu Âu.
A partir d'aquell moment, entre altres coses, la influència de l'estètica japonesa es va estendre ràpidament per Occident i, d'una manera especial, a París.
Kể từ đó, nền mỹ học Nhật Bản cùng với những mặt hàng khác nhanh chóng lan rộng khắp phương Tây và đặc biệt là đến Paris.
Pintors impressionistes com Henri de Toulouse-Lautrec, Paul Gauguin, Edgar Degas, Vincent Van Gogh i Claude Monet, van rebre la seva influència.
Nơi những họa sĩ trường phái ấn tượng như Henri de Toulouse-Lautrec, Paul Gauguin, Edgar Degas, Vincent Van Gogh và Claude Monet đêu có cảm hứng mạnh đối với nghệ thuật Nhật Bản, mà Hokusai là nổi bật nhất trong số đó.
Entre els artistes japonesos que més van cridar l'atenció destacà Hokusai.[29] Tot i que l'existència de l'estil ukiyo-e es remuntava a tres-cents anys enrere, el seu gran desenvolupament es va produir durant els segles XVIII i xix, ja que en una societat japonesa amb més recursos econòmics les xilografies eren molt apreciades.
[1] Mặc dù phong cách ukiyo-e đã xuất hiện từ ba trăm năm trước, nhưng phải đến cuối thế kỷ 18 và đầu 19 mới là thời kỳ phát triển vượt bậc của chúng. Đây là thời điểm mà một xã hội Nhật Bản đang nắm giữ nhiều tài nguyên kinh tế, những bức tranh in mộc bản theo đó mà cũng được đánh giá cao.
Més endavant, però, amb l'intercanvi comercial entre el Japó i Occident, també es produí una davallada en la producció de les xilografies.
Tuy nhiên, sau sự giao thương giữa Nhật Bản và phương Tây, việc sản xuất loại hình dần bị thuyên giảm.
Entre els anys 1868 i 1912, van arribar al Japó importacions de béns occidentals, entre aquests la fotografia i les noves tècniques d'impressió, innovacions que van provocar que l'estil ukiyo-e arribés pràcticament a desaparèixer.[25]
Từ năm 1868 đến 1912, nhiều mặt hàng phương Tây đặt chân lên Nhật Bản trong đó bao gồm cả nhiếp ảnh và các kỹ thuật in ấn mới, những cải tiến này khiến phong cách ukiyo-e hầu như biến mất,[25]và dần nhường chỗ cho những phong tràovà dần nhường chỗ cho những phong trào và nhường chỗ cho những phong trào hiện đại như shin-hanga hay sokaku-hanga.
Vincent van Gogh fou un dels pintors que van expressar la seva gran admiració per les estampes japoneses i se sap que va realitzar diverses còpies de les seves xilografies.
Vincent van Gogh là một trong những họa sĩ bày tỏ sự ngưỡng mộ lớn đối với tranh in Nhật Bản và cũng là người đã thực hiện sao chép lại một số tác phẩm cho riêng mình.
Sobre aquestes va deixar escrit:
Ông có viết:
L'obra de Van Gogh va rebre amb especial intensitat la influència d'Hokusai.
Tác phẩm của Van Gogh đặc biệt chịu ảnh hưởng từ Hokusai.
Això es palesa en els darrers paisatges plens de moviments ondulants, en el gran cercle que forma el sol envoltat per línies que formen els diferents colors, el negre que emprava en els seus contorns i en el ritme del traços trencats; també és ben evident en una de les seves darreres pintures, Iris (1889). Després de realitzar Iris, en una carta al seu germà Theo, Van Gogh va comentar que les seves pròpies obres: «no semblen japoneses, però són les creacions més japoneses que mai he fet».Carta a Theo, núm. 501 del 18 de juliol del 1888.[31]
Sau khi thực hiện bức Iris vào năm 1889, Van Gogh có nhận xét các tác phẩm của chính ông trong một bức thư gửi cho người em trai Theo: "chúng trông không giống Nhật Bản, nhưng chúng là những tác phẩm Nhật Bản nhất mà anh từng vẽ." [1]
Claude Monet va estar influït, sens dubte, per artistes japonesos en general, però les dues referències principals van ser Hokusai i Hiroshige.
Claude Monet chắc chắn cũng chịu ảnh hưởng bởi các nghệ sĩ Nhật Bản, nhưng hai nguồn chính đến từ Hokusai và Hiroshige.
La sèrie de Nenúfars de Monet està inspirada en flors d'Hokusai, així com la llarga sèrie realitzada sobre la Catedral de Rouen, que Monet només va pintar des d'un mateix angle, s'adiu molt amb la sèrie sobre el mont Fuji, encara que el japonès Hokusai les va fer des de llocs diferents; la influència s'observa per la forma de representar l'atmosfera, l'ambient i la llum, que era la intenció de tots dos artistes.
Bộ tác phẩm Hoa súng của Monet được lấy cảm hứng từ hoa của Hokusai, cũng như bộ tranh về Nhà thờ Rouen cũng rất tương đồng với bộ bản họa về Núi Phú Sĩ, khác biệt ở đây là Hokusai đã thực hiện từ những nơi khác nhau còn Monet chỉ tại một góc nhìn duy nhất; sự tương đồng này cũng có thể quan sát qua cách họ xử lý bầu không khí, môi trường xung quanh và ánh sáng, chúng đều xuất hiện ở cả hai nghệ sĩ.
Monet va arribar a instal·lar-se a casa seva un jardí amb un pont japonès, on va realitzar nombrosos paisatges influït per la impressió que li va produir la col·lecció que havia adquirit de gravats japonesos.[32]
Chịu ấn tượng từ bộ sưu tập bản họa Nhật Bản của mình, Monet thậm chí còn thiết kế một khu vườn với cây cầu Nhật Bản tại chính trong khuôn viên nhà, nơi ông đã tạo ra rất nhiều tác phẩm nổi tiếng về sau. [1]
Yanagawa Shigenobu va ser el seu primer deixeble i després es va convertir en el seu gendre.
Yanagawa Shigenobu là đệ tử đầu tiên của ông và sau đó trở thành con rể của ông.